NHÀ GIÁO CHU VĂN AN (1292 - 1370)
1. Thầy Chu Văn An là người thầy tiêu biểu, nổi tiếng của nước nhà. Tên tự của thầy là Linh Triệu, hiệu là Tiều Ẩn, quê ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì (Hà nội). Thời trẻ, thầy Chu Văn An học rất giỏi, tính tình thẳng thắn, không màng công danh, ở nhà dạy học. Thầy là người nổi tiếng nghiêm khắc, trọng tài năng học trò và coi thường những người cậy giàu ham chơi. Học trò của thầy Chu Văn An có nhiều người giỏi, có công giúp nước như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát v.v..
2. Vua Trần Minh Tông nghe tiếng đã mời ông ra làm Tư nghiệp (thời Trần là Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám và dạy Thái Tử học. Thời Trần Dụ Tông (1341 - 1369) chính sự suy đồi, nịnh thần lũng đoạn, làm nhiều điều sai trái. Ông đã dâng sớ xin chém 7 nịnh thần (Thất trảm sớ). Tuy nhiên những ý kiến này của Chu Văn An đã không được vua chấp nhận.
Ngay sau đó, ông đã treo ấn từ quan về sống ở núi Phụng Hoàng, núi Chí Linh (Hải Dương), những những khi triều hội lớn vẫn chống gậy về kinh dự bàn. 3. Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. Ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học, quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này. Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận. Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô. (Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải. Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa). (Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An). Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.
4. Vua Trần Dụ Tông giao việc chính sự, ông khước từ. Hoàng Thái Hậu đã từng nhận xét: "Người ấy là người không bắt làm tôi được". Vua sai người đem quần áo đến tặng, ông lạy tạ nhận xong rồi đem cho người khác. Sau khi Trần Dụ Tông qua đời, Trần Nghệ Tông lên thay, Chu Văn An đã chống gậy về kinh yết kiến vua, xong lại xin về làng cũ, không nhận chức tước, cũng không nhận ban thưởng. Không lâu sau, ông ốm nặng và qua đời. Vua Trần Nghệ Tông đã cho người đến tế lễ và ra lệnh thờ ông ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. [Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã giải thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức]. Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".
5. Chu Văn An là người thầy chủ trương thực học, thầy đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị như tập thơ "Tiều Ẩn thi tập", "Quốc ngữ thi tập", Bộ Tứ thư thuyết ước, ngoài ra còn có bộ "Y học yếu giải tập chú" là bộ sách quí đúc kết lý luận Đông y cùng nhiều phương thuốc chữa các bệnh ôn nhiệt.
6. Ngày nay, để tưởng nhớ tới đạo đức và sự nghiệp của Thầy, nhân dân Thủ đô Hà Nội đã lấy tên Thầy để đặt tên cho một đường phố và một trường trung học lớn của Hà Nội. Đó là phố Chu Văn An và Trường phổ thông Trung học Chu Văn An. Phố Chu Văn An, nguyên là đại lộ Van Vôlenhôven thời Pháp thuộc, đi từ đường Điện Biên Phủ đến phố Nguyễn Thái Học. Còn Trường trung học Chu Văn An nằm trên đường Thụy Khuê ngay ven Hồ Tây, nơi lưu truyền những giai thoại và truyền thuyết cổ xưa. Trường này nguyên trước là Trường cao đẳng tiểu học Bảo hộ (collège du protectorat) do thực dân Pháp lập từ năm 1907 để chống lại phong trào Đông kinh Nghĩa thục, nhưng nhân dân ta thường vẫn quen gọi là Trường Bưởi. Năm 1945, Cách mạng thành công, các nhà giáo và nhân dân Hà Nội đã nhất trí chọn tên nhà giáo dục mẫu mực Chu Văn An đặt tên cho trường.